Ung thư biểu mô tuyến thực quản

bởi Catherine Forse MD FRCPC và Jason Wasserman MD Tiến sĩ FRCPC
23 Tháng Tư, 2024


Ung thư biểu mô tuyến (còn gọi là ung thư biểu mô tuyến xâm lấn) là một loại ung thư thực quản. Đây là loại ung thư thực quản phổ biến nhất ở các nước phát triển và phổ biến ở nam giới hơn nữ giới. Loại ung thư này thường bắt đầu ở một phần của thực quản được gọi là ngã ba dạ dày thực quản.

Bài viết này sẽ giúp bạn đọc và hiểu báo cáo bệnh lý của bạn về ung thư biểu mô tuyến thực quản.

Thực quản

Thực quản là một ống cơ rỗng nối cổ họng (hầu họng) với dạ dày. Chức năng chính của nó là vận chuyển thức ăn và chất lỏng từ miệng đến dạ dày để tiêu hóa. Khi bạn nuốt, các thành của thực quản co lại theo cách phối hợp - chuyển động này, được gọi là nhu động, đẩy thức ăn xuống. Thực quản còn có cơ vòng ở hai đầu; các van cơ này mở ra để cho phép thức ăn và chất lỏng đi vào dạ dày và đóng lại để ngăn các chất trong dạ dày trào ngược lên thực quản và miệng.

Các triệu chứng của ung thư tuyến trong thực quản là gì?

Các triệu chứng phổ biến nhất của ung thư biểu mô tuyến thực quản là khó nuốt (đặc biệt là thức ăn đặc), đau ngực, trào ngược axit trầm trọng hơn và sụt cân.

Nguyên nhân nào gây ra bệnh ung thư biểu mô tuyến thực quản?

Ung thư biểu mô tuyến thực quản thường phát sinh từ một tình trạng gọi là thực quản của Barrett nguyên nhân là do axit dạ dày trào ngược lên thực quản trong thời gian dài (bệnh trào ngược axit). Vì lý do này, ung thư biểu mô tuyến ở thực quản thường phát triển sau nhiều năm bị trào ngược axit.

Khi bên trong thực quản tiếp xúc với axit dạ dày trong một thời gian dài, các tế bào vảy thường bao phủ bên trong thực quản được thay thế bằng tế bào tuyến tương tự như các tế bào được tìm thấy ở bên trong ruột non. Những tế bào đường ruột này có khả năng chống lại tổn thương tốt hơn từ các axit mạnh phát sinh trong dạ dày. Sự thay đổi từ tế bào vảy thành tế bào ruột được gọi là chuyển sản ruột.

Các bác sĩ sử dụng thuật ngữ Barrett thực quản để mô tả chứng chuyển sản đường ruột ở thực quản. Nó được đặt theo tên của Tiến sĩ Norman R. Barrett, một bác sĩ phẫu thuật đã hành nghề ở London, Anh vào những năm 1950. Những người mắc bệnh thực quản Barrett trong nhiều năm có thể phát triển một loại tăng trưởng bất thường gọi là loạn sản, có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tuyến.

Những gì cần tìm trong báo cáo bệnh lý của bạn về ung thư biểu mô tuyến xâm lấn thực quản:

Lớp mô học

Các nhà nghiên cứu bệnh học sử dụng thuật ngữ biệt hóa để chia ung thư biểu mô tuyến thực quản thành ba mức độ – biệt hóa tốt, biệt hóa vừa phải và biệt hóa kém. Cấp độ dựa trên tỷ lệ khối u hình thành các cấu trúc tròn được gọi là các tuyến. Một khối u không hình thành bất kỳ tuyến nào được gọi là không biệt hóa. Cấp độ này rất quan trọng vì các khối u biệt hóa kém và không biệt hóa hoạt động theo cách hung hãn hơn và có nhiều khả năng lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như hạch bạch huyết.

Ung thư biểu mô tuyến thực quản được phân loại như sau:

  • Ung thư biểu mô tuyến biệt hóa tốt: Hơn 95% khối u được tạo thành từ các tuyến. Các nhà nghiên cứu bệnh học cũng mô tả những khối u này là loại 1.
  • Ung thư biểu mô tuyến biệt hóa vừa: 50 đến 95% khối u được tạo thành từ các tuyến. Các nhà nghiên cứu bệnh học cũng mô tả những khối u này là loại 2.
  • Ung thư biểu mô tuyến kém biệt hóa: Ít hơn 50% khối u được tạo thành từ các tuyến. Các nhà nghiên cứu bệnh học cũng mô tả những khối u này là độ 3.

Ung thư biểu mô tuyến cấp độ khối u của thực quản

Độ sâu xâm lấn và giai đoạn khối u bệnh lý (pT)

Ung thư biểu mô tuyến bắt đầu ở một lớp mô mỏng bên trong thực quản gọi là niêm mạc. Khi khối u nằm hoàn toàn trong niêm mạc, nó được gọi là trong niêm mạc. Bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến trong niêm mạc thực quản có tổng thể tốt hơn tiên lượng bởi vì các tế bào khối u ít có khả năng lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như hạch bạch huyết.

Trong bệnh học, cuộc xâm lăng mô tả sự lây lan của tế bào ung thư vào các cơ quan hoặc mô xung quanh vị trí khối u bắt đầu. Khi khối u ở thực quản phát triển, các tế bào ung thư có thể lan vào các lớp mô bên dưới niêm mạc. Tại thời điểm này, căn bệnh này được gọi là ung thư biểu mô tuyến xâm lấn.

Khi kiểm tra khối u dưới kính hiển vi, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ xem các tế bào ung thư đã lan rộng từ niêm mạc vào các lớp mô bên dưới bao xa. Đây được gọi là độ sâu hoặc mức độ xâm lấn và điều này rất quan trọng vì các khối u xâm lấn sâu hơn có nhiều khả năng lan sang các bộ phận cơ thể khác, chẳng hạn như hạch bạch huyết, gan hoặc phổi. Mức độ xâm lấn cũng được sử dụng để xác định giai đoạn khối u bệnh lý (pT). Những hình ảnh dưới đây cho thấy mối liên quan giữa độ sâu xâm lấn và giai đoạn bệnh lý của khối u.

Ung thư biểu mô tuyến thực quản: Xâm lấn vào niêm mạc cơ

Ung thư biểu mô tuyến thực quản: xâm lấn vào lớp dưới niêm mạc

Ung thư biểu mô tuyến thực quản: Xâm lấn vào lớp cơ

Ung thư biểu mô tuyến thực quản: xâm lấn vào lớp ngoài

HER2

HER2 là một loại protein có chức năng như một thụ thể, hoạt động giống như một công tắc kiểm soát sự phát triển và phân chia tế bào. Ở một số tế bào khối u, lượng HER2 dư thừa được tạo ra, dẫn đến sự tăng trưởng và phân chia nhanh hơn nhiều so với các tế bào bình thường.

Khoảng 2/2 trường hợp ung thư biểu mô tuyến thực quản liên quan đến việc sản xuất quá mức HER2. Các phương pháp điều trị cụ thể nhắm vào các khối u sản sinh thêm HERXNUMX. Do đó, bác sĩ giải phẫu bệnh có thể khuyên bạn nên xét nghiệm khối u để tìm lượng HERXNUMX dư thừa để xác định phương pháp điều trị tốt nhất.

Phương pháp phổ biến nhất để phát hiện HER2 trong ung thư biểu mô tuyến là xét nghiệm gọi là hóa mô miễn dịch. Kết quả của thử nghiệm này thường được báo cáo theo cách sau:

  • Tiêu cực (0 hoặc 1) - Các tế bào khối u không sản xuất thêm HER2.
  • Tương đương (2) – Các tế bào khối u có thể sản xuất thêm HER2. Trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu bệnh học thường sẽ thực hiện một xét nghiệm trong phòng thí nghiệm gọi là lai huỳnh quang tại chỗ (FISH) để xem liệu tế bào khối u có nhiều bản sao gen HER2 hơn hay không. Điều này có thể giúp xác định xem khối u có biểu hiện nhiều protein HER2 hơn hay không.
  • Tích cực (3) - Các tế bào khối u chắc chắn đang sản xuất thêm một lượng HER2.

Protein sửa chữa không phù hợp

Sửa chữa không khớp (MMR) là một hệ thống bên trong tất cả các tế bào khỏe mạnh, bình thường nhằm sửa chữa các lỗi trong vật liệu di truyền (DNA) của chúng ta. Hệ thống này bao gồm các loại protein khác nhau và bốn loại phổ biến nhất là MSH2, MSH6, MLH1 và PMS2.

Bốn protein sửa chữa không khớp MSH2, MSH6, MLH1 và PMS2 hoạt động theo cặp để sửa chữa DNA bị hỏng. Cụ thể, MSH2 hoạt động với MSH6 và MLH1 hoạt động với PMS2. Nếu một protein bị mất, cặp protein này không thể hoạt động bình thường và nguy cơ phát triển ung thư sẽ tăng lên.

Cách phổ biến nhất để kiểm tra các protein sửa chữa không khớp là hóa mô miễn dịch. Thử nghiệm này cho phép các nhà nghiên cứu bệnh học xem liệu các tế bào khối u có tạo ra tất cả bốn loại protein sửa chữa không khớp hay không. Kết quả của thử nghiệm này thường được báo cáo như sau:

  • Kết quả bình thường: Biểu hiện protein được giữ lại.
  • Kết quả bất thường: Mất biểu hiện protein.

Thử nghiệm sửa chữa không phù hợp rất quan trọng vì nó có thể giúp dự đoán mức độ hiệu quả của một số phương pháp điều trị. Ví dụ, những bệnh ung thư bị mất biểu hiện protein sửa chữa không khớp có nhiều khả năng đáp ứng với các phương pháp điều trị bằng liệu pháp miễn dịch như thuốc ức chế PD-1 hoặc PD-L1. Điều này là do số lượng đột biến cao thường thấy ở các khối u thiếu hụt có thể tạo ra các kháng nguyên mới khiến khối u dễ lộ rõ ​​hơn và dễ bị tổn thương trước hệ thống miễn dịch.

Thử nghiệm sửa chữa không khớp cũng được thực hiện để xác định những bệnh nhân có thể mắc hội chứng Lynch, còn được gọi là ung thư đại trực tràng không polyp di truyền (HNPCC). Hội chứng Lynch là một rối loạn di truyền làm tăng nguy cơ phát triển nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư thực quản, ung thư ruột kết, ung thư nội mạc tử cung, ung thư buồng trứng và ung thư dạ dày.

PD-L1

PD-L1 (Programmed Death-Ligand 1) là một loại protein được tìm thấy trên bề mặt của các tế bào khỏe mạnh bình thường và một số tế bào ung thư. Nó được gọi là protein điểm kiểm soát miễn dịch vì nó làm giảm hoạt động của các tế bào miễn dịch gọi là tế bào T. Những tế bào này thường phát hiện các tế bào bất thường, chẳng hạn như tế bào ung thư và loại bỏ chúng khỏi cơ thể. Các tế bào ung thư biểu hiện sự tấn công thoát khỏi protein này của tế bào T bằng cách kích hoạt một protein trên tế bào T có tên là PD-1.

Các bác sĩ kiểm tra protein này để giúp xác định bệnh nhân nào có thể được hưởng lợi từ các phương pháp điều trị nhắm vào con đường PD-1/PD-L1, chẳng hạn như thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch. Để kiểm tra biểu hiện PD-L1, các nhà nghiên cứu bệnh học thường thực hiện một xét nghiệm gọi là hóa mô miễn dịch trên một mẫu mô khối u. Trong xét nghiệm này, một kháng thể đặc hiệu chống lại PD-L1 được áp dụng cho phần mô và sau đó được phát hiện bằng cách sử dụng kháng thể thứ cấp gắn với thuốc nhuộm.

Mức độ biểu hiện protein sau đó được tính và cho điểm dựa trên cường độ và phần trăm tế bào dương tính. Đối với ung thư thực quản, kết quả được báo cáo là điểm dương tính tổng hợp (CPS), với điểm > 1 được coi là dương tính.

Sự xâm lấn quanh dây thần kinh

Các nhà nghiên cứu bệnh học sử dụng thuật ngữ “xâm lấn quanh dây thần kinh” để mô tả tình trạng tế bào ung thư bám vào hoặc xâm lấn dây thần kinh. “Xâm lấn nội thần kinh” là một thuật ngữ liên quan đặc biệt đề cập đến các tế bào ung thư được tìm thấy bên trong dây thần kinh. Dây thần kinh, giống như những sợi dây dài, bao gồm các nhóm tế bào được gọi là tế bào thần kinh. Những dây thần kinh này hiện diện khắp cơ thể, truyền thông tin như nhiệt độ, áp suất và cơn đau giữa cơ thể và não. Sự hiện diện của sự xâm lấn quanh dây thần kinh rất quan trọng vì nó cho phép các tế bào ung thư di chuyển dọc theo dây thần kinh vào các cơ quan và mô lân cận, làm tăng nguy cơ khối u tái phát sau phẫu thuật.

Xâm lấn tầng sinh môn

Xâm lấn mạch bạch huyết

Sự xâm lấn mạch bạch huyết xảy ra khi các tế bào ung thư xâm lấn mạch máu hoặc mạch bạch huyết. Mạch máu là những ống mỏng mang máu đi khắp cơ thể, trong khi mạch bạch huyết mang chất lỏng gọi là bạch huyết thay vì máu. Những mạch bạch huyết này kết nối với các cơ quan miễn dịch nhỏ nằm rải rác khắp cơ thể, được gọi là hạch bạch huyết. Sự xâm lấn mạch bạch huyết rất quan trọng vì nó cho phép các tế bào ung thư lan sang các bộ phận khác của cơ thể, bao gồm các hạch bạch huyết hoặc gan, qua máu hoặc mạch bạch huyết.

Xâm lấn mạch bạch huyết

Lợi nhuận

Trong bệnh lý học, rìa là phần rìa của mô được loại bỏ trong quá trình phẫu thuật khối u. Trạng thái lề trong báo cáo bệnh lý rất quan trọng vì nó cho biết liệu toàn bộ khối u đã được cắt bỏ hay còn sót lại một số. Thông tin này giúp xác định nhu cầu điều trị thêm.

Các nhà nghiên cứu bệnh học thường đánh giá tỷ lệ lợi nhuận sau một thủ tục phẫu thuật giống như cắt bỏ or sự cắt bỏ, loại bỏ toàn bộ khối u. Lợi nhuận thường không được đánh giá sau một sinh thiết, chỉ loại bỏ một phần của khối u.

Trong cắt bỏ nội soi khi chỉ cắt bỏ một phần nhỏ bên trong thực quản, phần rìa sẽ bao gồm:

  • Lề niêm mạc – Đây là mô lót bề mặt bên trong của thực quản. Một tên khác cho lề này là lề bên.
  • Lợi nhuận sâu - Mô này nằm bên trong thành của thực quản. Nó nằm bên dưới khối u.

Trong mẫu cắt thực quản khi toàn bộ đoạn thực quản đã bị cắt bỏ, các lề sẽ bao gồm:

  • Lề gần – Bờ này nằm gần phần trên của thực quản, gần miệng hơn.
  • Lề xa - Bờ này nằm gần phần dưới của thực quản. Bờ xa có thể ở thực quản hoặc dạ dày.
  • Lề hướng tâm - Đây là mô xung quanh bên ngoài của thực quản.

Các nhà nghiên cứu bệnh học kiểm tra lề để kiểm tra xem các tế bào khối u có hiện diện ở mép cắt của mô hay không. Tỷ lệ dương, nơi tìm thấy tế bào khối u, cho thấy một số bệnh ung thư có thể vẫn còn trong cơ thể. Ngược lại, biên độ âm, không có tế bào khối u ở rìa, cho thấy khối u đã được loại bỏ hoàn toàn. Một số báo cáo cũng đo khoảng cách giữa các tế bào khối u gần nhất và rìa, ngay cả khi tất cả các lề đều âm tính.

Lợi nhuận

Các hạch bạch huyết

Các cơ quan miễn dịch nhỏ, được gọi là hạch bạch huyết, nằm khắp cơ thể. Tế bào ung thư có thể di chuyển từ khối u đến các hạch bạch huyết này thông qua các mạch bạch huyết nhỏ. Vì lý do này, các bác sĩ thường loại bỏ và kiểm tra các hạch bạch huyết bằng kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. Quá trình này, trong đó các tế bào ung thư di chuyển từ khối u ban đầu sang một bộ phận cơ thể khác, giống như hạch bạch huyết, được gọi là di căn.

Hạch bạch huyết

Các tế bào ung thư đầu tiên thường di chuyển đến các hạch bạch huyết gần khối u, mặc dù các hạch bạch huyết ở xa cũng có thể bị ảnh hưởng. Do đó, bác sĩ phẫu thuật thường loại bỏ các hạch bạch huyết gần khối u nhất trước tiên. Họ có thể loại bỏ các hạch bạch huyết ở xa khối u hơn nếu chúng to ra và có sự nghi ngờ mạnh mẽ rằng chúng có chứa tế bào ung thư.

Các nhà nghiên cứu bệnh học sẽ kiểm tra bất kỳ hạch bạch huyết nào bị loại bỏ dưới kính hiển vi và kết quả sẽ được trình bày chi tiết trong báo cáo của bạn. Kết quả “dương tính” cho thấy sự hiện diện của tế bào ung thư trong hạch bạch huyết, trong khi kết quả “âm tính” có nghĩa là không tìm thấy tế bào ung thư. Nếu báo cáo tìm thấy các tế bào ung thư trong một hạch bạch huyết, nó cũng có thể chỉ định kích thước của cụm tế bào lớn nhất này, thường được gọi là “tập trung” hoặc “tiền gửi”. Phần mở rộng Extranodal xảy ra khi các tế bào khối u xâm nhập vào bao ngoài của hạch bạch huyết và lan sang các mô lân cận.

Kiểm tra các hạch bạch huyết là quan trọng vì hai lý do. Đầu tiên, nó giúp xác định giai đoạn hạch bệnh lý (pN). Thứ hai, việc phát hiện ra các tế bào ung thư trong một hạch bạch huyết cho thấy nguy cơ tìm thấy các tế bào ung thư ở các bộ phận khác của cơ thể sau này sẽ tăng lên. Thông tin này hướng dẫn bác sĩ quyết định xem bạn có cần điều trị bổ sung hay không, chẳng hạn như hóa trị, xạ trị hoặc liệu pháp miễn dịch.

Giai đoạn hạch bệnh lý (pN) của ung thư biểu mô tuyến thực quản:

  • N0 - Không có tế bào khối u nào được nhìn thấy trong bất kỳ hạch bạch huyết nào được kiểm tra.
  • N1 - Tế bào khối u được nhìn thấy ở một hoặc hai hạch bạch huyết.
  • N2 - Tế bào khối u được nhìn thấy trong ba đến sáu hạch bạch huyết.
  • N3 - Tế bào khối u được nhìn thấy trong hơn sáu hạch bạch huyết.
  • NX - Không có hạch bạch huyết được gửi đến bác sĩ giải phẫu bệnh để kiểm tra.

Hiệu quả điều trị

​Nếu bạn được điều trị ung thư (hóa trị hoặc xạ trị hoặc cả hai) trước khi cắt bỏ khối u, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ kiểm tra cẩn thận khu vực mô nơi khối u được xác định trước đó để xem liệu có tế bào ung thư nào còn sống (khả năng sống sót) hay không. Hệ thống được sử dụng phổ biến nhất mô tả hiệu quả điều trị theo thang điểm từ 0 đến 3, với 0 là không có tế bào ung thư còn sống (tất cả các tế bào ung thư đã chết) và 3 là ung thư còn sót lại trên diện rộng mà không có sự thoái triển rõ ràng của khối u (tất cả hoặc hầu hết tế bào ung thư còn sống).

Về bài viết này

Các bác sĩ viết bài này để giúp bạn đọc và hiểu báo cáo bệnh lý của mình. Liên hệ với chúng tôi nếu có bất kỳ câu hỏi nào về bài viết này hoặc báo cáo bệnh lý của bạn. Đọc bài viết này để có phần giới thiệu tổng quát hơn về các phần của một báo cáo bệnh lý điển hình.

Các nguồn hữu ích khác

Atlas bệnh học
A+ A A-